Trong phân tích kỹ thuật chứng khoán thì lý thuyết Dow là cơ sở trước tiên cho mọi nghiên cứu kĩ thuật trên thị trường. Nó là cơ sở để xây dựng cũng như đối tượng nghiên cứu của lý thuyết chính là những biến động của bản thân thị trường (thể hiện trong chỉ số trung bình của thị trường) và không hề dựa trên cùng cơ sở của phân tách cơ bản là các thống kê hoạt động kinh doanh của tổ chức.
Video bài giảng phân tách kỹ thuật thuật về lý thuyết Dow của thầy Trương Bình
LỊCH SỬ hình thành VÀ tạo ra LÝ THUYẾT DOW TRONG phân tách KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN
Trong những ghi chép của người đầu tiên đề ra lý thuyết này, Charles. H. Dow, có rất nhiều điều chứng tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ trở thành một dụng cụ sử dụng cho dự báo thị trường chứng khoán hay thậm chí nó đã biến thành một hướng dẫn chung cho các nhà đầu tứ. Những ghi chép ấy chỉ nói lên rằng, ông muốn lý thuyết của mình sẽ biến thành một thước đo cô động bình thường của thị trường. Dow xây dựng doanh nghiệp “Dịch vụ thông báo tài chính Dow-Jones” và được mọi người biết đến với việc tìm ra chỉ số bình quân thị trường chứng khoán. Những nguyên lý cơ bản của thuyết giáo (ngày nay được đặt theo tên ông) đã được ông phác thảo ra trong một bài nghiên cứu nhưng mà ông viết cho “Tạp Chí Phố Wall”. Sau khi Dow mất, năm 1902, người kế tục ông làm biên tập cho tờ nhật trình, William. P. Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên cứu lý thuyết này. Sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã doanh nghiệp và cấu trúc lại thành Lý thuyết Dow như hiện tại.
khám phá về lý thuyết của Dow, đầu tiên ta phải nghiên cứu tới chỉ số trung bình của thị trường. Nhìn tầm thường giá chứng khoán của tất cả các công ty đều cùng lên và xuống. Tuy nhiên, một số cổ phiếu lại chuyển động theo hướng trái lại xu thế chung của các cổ phiếu khác, cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tiễn cho thấy khi thị trường lên giá thì giá của một số chứng khoán đẩy mạnh hơn những chứng khoán khác, còn khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá lập cập Trong khi có một số dị kì tăng lên, mà thực tiễn vẫn chứng minh rằng hầu như tất cả các chứng khoán đều nao núng theo cùng một xu thế tầm thường.
Cùng với những nỗ lực nghiên cứu của mình, Charles Dow là người đã đưa ra khái niệm về “chỉ số giá bình quân” nhằm đề đạt xu thế phổ biến của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường. Nhì loại chỉ số bình quân Dow-Jones được hình thành vào năm 1897 và vẫn còn cho đến cho tới hiện tại được Dow tìm ra và áp dụng trong các nghiên cứu của ông về xu thế phổ biến của thị trường. Một trong nhì loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 công ty hỏa xa, loại còn lại gọi là chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones thuộc các ngành khác bao gồm 12 đơn vị mạnh nhất vào thời kỳ đó. Con số này tăng lên 20 doanh nghiệp vào năm 1916 và tới 1928 là 30 đơn vị.
12 lý lẽ quan yếu TRONG LÝ THUYẾT DOW ĐỂ phân tích KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN
Khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 12 nguyên tắc quan yếu cần để ý sau:
1. Chỉ số bình quân thị trường phản ảnh tất cả (trừ hành động của Chúa)
bởi nó đề đạt những hoạt động có cấu kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tứ, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể thúc đẩy tới cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự trù được thì ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản chiếu ngay vào giá của các loại chứng khoán.
2. Ba xu thế của thị trường
Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán nói chung, nao núng của thị trường phân thành các xu thế giá, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những bất định tăng hoặc giảm với quy mô lớn, thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm tới 20% giá của các cổ phiếu. Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị gián đoạn do các do sự xen vào của các dao động cấp 2 theo hướng đối lập – gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những biến động này xuất hiện khi xu hướng cấp 1 tạm thời vượt quá chừng độ hiện tại của bản thân nó (gọi thông thường các biến động này là các biến động trung gian – biến động cấp 2). Những bất định cấp 2 bao gồm những biến động giá nhỏ hay gọi là những biến động hàng ngày và không có ý nghĩa quan trọng trong Lý thuyết Dow.
3. Xu thế cấp 1
Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động bự của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Giả dụ mỗi đợt tăng giá liên tục đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá – thị trường lúc này là thị trường con bò tót – thị trường tăng giá (Bull Market) Còn trái lại nếu mỗi cô động giảm đều khiến cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên tới mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường con gấu – thị trường giảm giá (Bear Market).
thường ngày, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu vậy mà một nhà đầu tứ dài hạn quan tâm. Mục tiêu của nhà đầu tư đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá, sớm tới mức anh ta có thể kiên cố rằng mới có độc nhất vô nhị mình anh ta khởi đầu mua và sau đó nắm giữ đến khi và chỉ khi Bull Market đã thực sự xong xuôi và khởi đầu Bear Market. Nhà đầu bốn hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các dao động nhỏ bởi vì họ đầu bốn dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Ngoài ra với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan yếu bởi vì họ kiếm lợi nhuận dựa trên những bất định ngắn hạn của thị trường
4. XU THẾ CẤP 2
Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có thúc đẩy làm gián đoạn quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh sinh ra ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là bình phục hiện ra ở các Bear Market. Thường thì những bất định trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng. Chúng sẽ kéo ngược lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Bởi đó, chẳng hạn trong Bull Market, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục bình ổn hoặc có ngăn cách rất nhỏ và mức tăng đạt đến 30 điểm, khi đó sinh ra xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể trông đợi xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 tới 20 điểm cho tới khi thị trường lặp lại xu thế tăng cấp 1 lúc đầu của nó.
Dẫu sao cũng cần lưu ý là qui tắc giảm 1/3 đến 2/3 không phải là một luật lệ không thể phá tan vỡ nhưng mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về khả năng có thể xảy ra nhưng mà hồ hết các bất định cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó hoàn thành ảnh hưởng ở điểm gần với mức 50% mà rất hãn hữu khi đạt tới mức 1/3. Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài chí ít 3 tuần và kéo hoàn lại ít nhất 1/3 mức biến động thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm xong biến động cấp 2 trước đó tới cô động cấp 2 này, bỏ lỡ những dao động nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là biến động cấp 2. Mặc dầu đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những gian truân trong việc xác định thời điểm hiện ra và thời kì sinh tồn của xu thế.
5. Xu thế nhỏ (Minor)
Đây là những động dao trong thời kì ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói tới, phiên bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thường ngày thì một bất định trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa nhì xu thế cấp 2 liên tiếp, đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những chao đảo nhỏ không giống nhau. Xu thế nhỏ là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để thúc đẩy vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao tế với khối lượng rất mập và điều này hầu như là chẳng thể.
Để làm rõ định nghĩa về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với cô động của sóng đại dương với một số điểm giống nhau như sau:
Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống. Có thể so sánh thị trường lên giá (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ đại dương càng ngày càng xa vào sâu trong bờ và tới đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về biển. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về hồ. Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tục nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ nhưng nước giảm xuống là do sóng sau vào tới bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng do đó sẽ trả lại dần dần bờ biển như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian, có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời khắc xảy ra xu thế đó.
Mặt đại dương cũng luôn luôn bất định với những gợn sóng khấp khểnh chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng lớn – những gợn sóng này thể hiện cho các xu thế bé (những nghiêng ngả hàng ngày có vai trò không quan trọng như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng nhỏ chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Trong những phần sau ta sẽ còn phê duyệt đến một lý thuyết khác về thị trường gọi là Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi bất định của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng.
6. Bull Market (thị trường con bò tót – thị trường tăng giá)
Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời gian.
thời gian đầu tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu tứ có góc nhìn xa sẽ tiến hành phê duyệt các công ty, có thể vào thời gian này công ty đang suy thoái mà nhà đầu tứ nhận thấy tài năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hiện ra tăng trưởng hối hả, có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều vì những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo âu về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường sinh ra sự suy giảm trong khối lượng giao tế. Các phiên bản lên tiếng tài chính của công ty đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Công chúng hoàn toàn cảm thấy thuyệt vọng khi tham dự vào thị trường chứng khoán bởi vì họ thấy lượng tiền đã đầu tứ của họ đang giảm giá trị hối hả và có nguy cơ còn giảm nữa, do thế mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối thời đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị trường đã có những lay động tuy thế hệ chỉ ở mức hạn chế, khởi đầu hình thành những đợt tăng giá bé.
Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia đẩy mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ đơn vị và doanh thu của nó cũng tăng dần và khởi đầu lôi cuốn các mối quan hoài trên thị trường. Đây chính là thời gian mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo môn phái phân tích kỹ thuật.
chung cuộc là thời kì thứ 3, trong thời gian này thị trường sục sôi với những bất định của nó. Công chúng rất phấn chấn với từng bất định của thị trường. Tất cả các thông báo tài chính của tổ chức đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức mường tưởng và đang là những vấn đề sốt dẻo được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Tới thời khắc sau khoảng nhị năm tính từ lúc thị trường mở đầu đi lên, những người ít kinh nghiệm có thể mới cho rằng thị trường lúc này thế hệ vững chắc cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Nhưng thực thụ thì sau nhị năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? ” Chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào ? ” Nữa. Vào cuối thời gian thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao thiệp vẫn tiếp tục tăng nhưng mà “air-pocket-stock”* hình thành ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá thấp mà không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt sản xuất trái khoán cũng ít dần đi.
(* Air-pocket-stock là những cổ phiếu bỗng ngột giám giá mạnh một cách bất thường – có thể là bởi nhà đầu tứ bán ồ ạt bởi vì một tin đồn xấu. Lý do sử dụng khái niệm này là vì nó được so sánh với việc phi cơ chợt ngột mất độ cao, ngoài kĩ năng kiểm soát khi gặp gỡ air-poket là những dòng khí hướng xuống, tương tác làm mất chiều cao máy bay)
7. Bear Market (Thị trường con gấu – thị trường giảm giá)
Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành ba thời kỳ.
Thời kỳ trước tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này thực thụ khởi đầu ở thời đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu bốn có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những tổ chức nhưng mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không thông thường và họ muốn nhanh chóng thoát khỏi vị thế chiếm hữu cổ phiếu của những đơn vị này. Khối lượng giao tiếp vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của khuynh hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng mà cũng khởi đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.
Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ “hỗn loạn”. Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán mở đầu trở lên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao tế đạt tới mức đỉnh điểm. Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn do sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp. Sau giai đoạn hỗn loàn có thể có thời đoạn bình phục (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một giai đoạn dao động ngang của đồ thị thị trường (các chao đảo không có hướng đi lên hay đi xuống mà là động dao trong một khoảng nhất thiết theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Thời đoạn này biểu đạt tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu bốn, họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loàn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Dứt thời đoạn này thế hệ bước vào thời kỳ thứ ba.
Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng mà lại được duy trì bởi vì những lệnh bán nhiều và liên tục trình bày “nỗi buồn” và sự lo âu của những nhà đầu bốn đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm tới mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như chơi được giao tế bởi vì những người chiếm hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của cục bộ thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ giao hội vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Bear Market xong tất cả với những tin xấu về các tổ chức, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã biểu lộ ra và có thể tới
8. Nhị đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị trường.
Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các lý lẽ của lý thuyết Dow. Ngoài ra từ khi được đưa ra cho tới nay nó đã được thời kì chứng minh tính chính xác và nó vẫn được ứng dụng cho tới ngày nay và bất kì một ai đã xem xét những số liệu đánh dấu thì đều chẳng thể có quan điểm phản đối với phép tắc này. Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua cách thức này thì trong thực tiễn kinh doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy tiếc nuối. Điều nguyên tắc này muốn nói tới là không thể có một dấu hiệu đính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ ưng chuẩn coi xét cô động của độc nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói tới những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chả hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có hai loại chỉ số bình quân).

phân tách kỹ thuật chứng khoán – ký thuyết dow
- Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống
- Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên
Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống vì cả hai không cùng công nhận một sự đảo chiều trong xu thế hiện tại của thị trường.
Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta mới có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ trên, trừ khi có một biến động nào khác nếu không chỉ độc nhất vô nhị chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng bình thường của thị trường nhưng thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ ràng vẫn chưa rõ ràng. Đây là một thí dụ vận dụng lý lẽ về sự xác nhận. Không quan trọng cả nhị chỉ số bình quân phải cùng xác nhận vào 1 ngày. Thường thì cả nhì chỉ số này sẽ cùng chuyển động tới cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy thế hệ, nhưng mà có nhiều trường hợp nhưng mà một trong hai chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một đến nhị tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu bốn phải giữ nhẫn nại và đợi cho tới khi thị trường thật sự thể hiện ra thực chất thiên hướng của nó.
9. Khối lượng giao du áp dụng kèm với xu thế thị trường.
Điều này miêu tả một thực tiễn là khi giá bất định theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có thiên hướng mở mang hơn. Do vậy, với Bull Market, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao tiếp sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu hồi phục. Điều này vẫn đúng ở chừng độ thấp hơn nghĩa là với những xu thế cấp 2, đặc biệt là trong thời đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp 2 trong một Bear Market, khi mà các cốt truyện của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá bé, còn các cô động kéo giá xuống giảm đi.
Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên tình tiết trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao dịch hiếm hoi. Phương pháp này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những cốt truyện của khối lượng giao du phổ biến trong thời gian giao thiệp tương đối dài. Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về giá thế hệ có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao tiếp chỉ có thể cung cấp thêm những bằng cớ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và dùng vào những cảnh huống khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi ngại.
10. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2.
Đường ngang theo định nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có thuộc tính trung gian của thị trường đề đạt thời kỳ nhưng mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 tới 3 tuần hoặc nhiều khi là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường hiện ra mô hình trạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối thăng bằng.
thực tại trong thời đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều miêu tả một sự kiệt sức. Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu nhưng mà họ muốn bán cho họ, còn những người muốn bán thì với thị trường có bất định dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Vì thế một mức giá dao động vượt ra ngoài mức nao núng của mô hình đường ngang đang hiện ra trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của nghiêng ngả vượt ra ngoài. Nhìn phổ biến mô hình đường ngang càng kéo vĩnh viễn và biên độ động dao càng nhỏ thì ý nghĩa của nghiêng ngả vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng mập.
Mô hình đường ngang thường diễn ra dài trọn vẹn để khoảng thời gian sinh tồn của nó mang một ý nghĩa quan yếu đối với những người phân tách thị trường theo trường phái Dow. Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan yếu của thị trường do nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ” – thời đoạn lúc đầu của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” – giai đoạn đầu của một Bull Market. Bình thường nhất, nó vào vai trò như một thời kỳ lặng tĩnh thuộc giai đoạn rút cuộc trong quá trình sinh ra hoặc thuộc thời đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này đóng vai trò như những sóng cấp 2. Mức biến động 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm bởi trên thực tiễn rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm đồng nhất với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ lớn hơn mà nhị biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.
11. Chỉ sử dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu.
Lý thuyết Dow không quan hoài và ít đề cao đến các mức bất định giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày nhưng mà chỉ quan hoài đến những số liệu cuối ngày giao tế, chả hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày.
xem xét một thị trường với xu thế căn bản là tăng giá và đang ở thời điểm giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, giả như lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể xác nhận thị trường vẫn đang trong xu thế cơ bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70. Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan hoài tới. Ngược lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng mà giá đóng cửa lại nhỏ hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi vấn liệu xu thế tăng giá hiện tại có còn tiếp tục hay không.
Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra xung quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải tăng thêm hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt nao núng giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc xác nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất chu đáo trong việc coi xét bất cứ một nao núng nhỏ nào xen vào xu thế hiện tại làm giá thay đổi thậm chí đến 0. 01 Và nhị ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Mà ngày nay nhiều nhà phân tách cho rằng mức chỉnh sửa đó phải đạt ít nhất 1.00 mới có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.
12. Một xu thế cần được giả thiết rằng vẫn đang tiếp tục cho tới khi có một dấu hiệu thực thụ về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định.
nguyên lý này là một trong những nguyên tắc có nhiều ý kiến tranh luận nhất. Nhưng mà khi được hiểu chính xác nó vẫn có giá trị rất béo trong phân tích thị trường. Lý lẽ thứ mười hai giúp ngừa với những chỉnh sửa (phản ứng) quá sớm trong quan điểm về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu bốn nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu bốn trì hoãn hành động của mình lại một cách không quan trọng, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, nhưng mà nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết chờ đợi cho tới khi họ vững chắc về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nóng vội với hành động của họ. Tài năng xảy chẳng thể được phát hiện một cách rõ ràng do thực chất của nó là những biến động thực tiễn của thị trường và chúng chỉnh sửa thường xuyên. Bull Market chẳng thể lên giá mãi và Bear Market thì trước sau cũng đạt đến đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa thế hệ được sinh ra thì cho dù có những nghiêng ngả trong ngắn hạn ta vẫn có thể kiên cố rằng nó không thay đổi, mà nếu nó kéo dài càng lâu thì mức kiên cố càng ít dần đi, các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và khả năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp nếu như Bull Market đã sinh tồn trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới hiện ra.
Một hệ quả tất yếu từ phép tắc này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do vậy bất kỳ nhà đầu bốn nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét